TOP 14 mẫu Diễn xuất vai ông Hai kể lại câu chuyện ngắn 'Làng' - SIÊU HAY, độc đáo nhất, giúp học sinh lớp 9 nhanh chóng tham gia vai nhân vật ông Hai kể lại toàn bộ câu chuyện một cách súc tích và tinh tế.

Câu chuyện 'Làng'

Đọc truyện ngắn “Làng” của Kim Lân, độc giả sẽ có ấn tượng sâu sắc về nhân vật ông Hai - một người dân hiền lành, siêng năng, và yêu thương sâu sắc. Hãy cùng đọc bài viết dưới đây của Mytour để nắm bắt kỹ năng kể chuyện theo góc nhìn của nhân vật.

Dàn ý số 1

Mô tả biến động tâm trạng và hành động của ông Hai:

+ Khi nghe tin làng bị giặc xâm lược:

  • Khi nghe tin tức mới: trái tim ông lão như bị nghẹn lại, khuôn mặt ông tái nhợt, ông lão im lặng, hơi thở trở nên khó khăn, giọng điệu mất đi sự rõ ràng, ông gục đầu, như không còn sức sống.
  • Hành động: khi trở về nhà, ông lão nằm gục trên giường, nước mắt tuôn rơi, ông nắm chặt tay và than thở: dân tộc Việt Nam lại phải trải qua những điều đáng xấu hổ như vậy... Ông Hai thao thức suốt đêm, không thể ngủ được, ông mệt mỏi, tay chân mềm nhũn, ngực ông đập loạn nhịp khi nghe tiếng nói của mụ chủ nhà...

+ Ý nghĩa của sự việc:

  • Tâm trạng và hành động của ông Hai thể hiện sự đau đớn, tủi hổ đến cùng cực và nhiều trạng thái khác nhau khi nghe tin làng Chợ Dầu của ông theo giặc.
  • Điều này cho thấy tình yêu tha thiết của ông Hai đối với làng quê, một tình yêu thiêng liêng, sâu sắc và vô cùng chân thành. Tình yêu dành cho quê hương là một phần không thể thiếu trong tình yêu dành cho Tổ quốc.

Mô tả biến động tâm trạng và hành động của ông Hai khi nghe tin làng bị giặc xâm lược:

  • Ông Hai ngậm ngùi nhai lá trầu, đôi mắt đỏ hoe tràn đầy nước mắt, vội vàng đi mua quà chia cho con cái, bước nhanh qua nhà bác Thứ, rồi đi qua từng căn nhà, cười hí hửng và vẫy tay mạnh mẽ để phô trương rằng tin đồn về việc nhà ông bị giặc đốt và làng Chợ Dầu đã từ chối kích thích từ giặc.
  • Ý nghĩa: Sự thay đổi trong tâm trạng và hành động là rất đáng chú ý. Trước đây, ông Hai đau buồn không thể tả khi nghe tin nhà mình bị cháy, nhưng bây giờ, ông lại hạnh phúc và sung sướng. Không ai khác có thể mỉm cười hạnh phúc như ông Hai khi nói về việc nhà mình bị cháy, vì đó là biểu tượng cho sự đoàn kết của làng Chợ Dầu, 'từ việc nhà ông bị cháy, danh dự của làng Chợ Dầu đã được khôi phục'. Tình yêu cho làng quê, niềm tự hào về nơi sinh sống đều được đặt lên hàng đầu.

Dàn ý số 2

I. Mở đầu: Giới thiệu vắn tắt về bản thân: Mọi người thường gọi tôi là ông Hai, tôi sinh ra và lớn lên ở làng Chợ Dầu.

II. Phần chính

  • Mô tả cảm xúc khi lưu vong: nhớ về quê hương, hân hoan khi trở lại từ phòng thông tin.
  • Thể hiện tâm trạng từ khi nghe tin xấu: cho rằng làng Chợ Dầu đã bị phản bội (Mô tả nội tâm, thảo luận, suy tư...)
  • Nhấn mạnh tâm trạng khi nghe tin được sửa đổi.

III. Kết luận: Xác nhận một lần nữa tình cảm sâu nặng của ông Hai đối với làng quê, với cuộc kháng chiến, và với Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Dàn ý số 3

1. Mở đầu: Trình bày ngắn gọn về bản thân: Mọi người thường gọi tôi là ông Hai, và tôi trải qua những thời kỳ khó khăn trong làng Chợ Dầu.

Giới thiệu sơ lược về bản thân (nhân vật ông Hai):

  • Tên thường gọi: ông Hai
  • Nơi cư trú: làng Chợ Dầu

2. Phần chính

* Tóm tắt bối cảnh:

  • Ông Hai sống cùng với vợ con tại nơi lánh nạn
  • Trong giờ trưa, nghỉ ngơi lại nhớ về quê nhà

* Kể về tâm trạng nhớ quê khi ở nơi tản cư:

  • Chỉ nhớ lại những kỷ niệm xưa khi cùng anh em làm việc
  • Đến phòng thông tin nghe đọc tin tức về quê hương
  • Nhận biết và trò chuyện với những người mới đến tận cư

* Tâm trạng khi biết tin làng bị giặc chiếm đóng:

  • Giật mình, đau lòng, tủi hổ
  • Một lòng yêu thương quê hương, giờ đây đau đớn vô bờ bến, thương nhớ con cái
  • Phê phán từng người, không tin rằng làng mình bị phản quốc

* Tâm trạng sau khi nghe tin cải chính:

  • Tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tự hào đi khoe với Tây về việc phá hoại nhà của mình
  • Biểu hiện niềm tự hào về ngôi làng, cam kết bảo vệ danh dự cho làng Chợ Dầu

3. Kết thúc

  • Thể hiện tình yêu thương đối với làng quê, đối với kháng chiến, với quê hương và đất nước

Nhập vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng

Tôi tên là Hai, mọi người thường gọi tôi là ông Hai. Như bao người tản cư khác đang sống ở đây, tôi cũng rất nhớ quê hương, và chỉ mong rằng cuộc kháng chiến sẽ nhanh chóng thắng lợi.

Hôm nay tôi đi ra ruộng để chuẩn bị trồng sắn. Dù có sức khỏe nhưng làm một mình cảm thấy mệt mỏi. Khi về đến nhà, nằm trên giường, tôi lại nhớ về thời gian ở làng Chợ Dầu, nơi tôi và các anh em cùng nhau làm việc. Tôi có vợ và ba đứa con, chờ đợi đứa lớn về để nó trông em, sau đó tôi nhanh chóng lên phòng thông tin để nghe đọc báo. Tôi đứng đợi xem tranh ảnh cho đến khi người khác đọc xong, vì chữ in quá khó đọc. Báo hôm nay có nhiều tin hay, tôi nghe mà không bỏ lỡ một câu nào. Trên đường về, tôi đi qua phố huyện cũ và gặp một nhóm người tản cư mới, họ đến từ Gia Lâm. Khi đang nói chuyện với họ, bất ngờ có một người phụ nữ kể về việc giặc từ Bắc Ninh tấn công Chợ Dầu. Nghe đến tên làng Chợ Dầu, tôi liền hỏi mụ ta về tình hình giết giặc. Mụ ta nói rằng cả làng Chợ Dầu đều bị coi là Việt gian theo giặc.

Khi đó, tôi cảm thấy nghẹn ngào, da mặt cảm thấy tê rần rần, tôi không thể tin vào điều đó. Mụ còn kể về việc thằng chánh Bệu đưa vợ con lên gặp giặc, tôi không còn gì để nói nữa, đành đứng dậy về nhà. Tôi về nhà, trong cảm giác đau đớn và tủi nhục, tôi cảm thấy cái làng của mình giờ lại trở thành làng Việt gian, điều đó thật nhục nhã. Rồi đây, tôi sẽ sống ra sao, nếu bị đuổi đi khỏi nơi này, tôi không biết phải đi đâu. Kể từ hôm đó, tôi chỉ dám ở trong nhà, ra ngoài chỉ sợ nghe người khác nói xấu về làng. Tôi quyết định dù cho không có chỗ nào để đi, cũng không bao giờ quay lại cái làng theo giặc ấy nữa, dù yêu làng thì phải thù giặc. Rất may, tin đồn làng tôi theo giặc chỉ là tin sai lầm, ông chủ tịch làng đã lên tản cư cải chính thông tin. Họ báo nhà tôi bị Tây đốt nhưng thực sự tôi rất vui sướng, vì đó là bằng chứng làng tôi không phải là làng Việt gian.

Sau những ngày đau khổ, tôi cảm thấy yêu quý hơn và tự hào về làng Chợ Dầu, về những người dũng cảm của làng.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng hay nhất

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 1

Làng Chợ Dầu, nơi tôi sinh ra và lớn lên, giờ đã không còn tồn tại nữa, bị Tây đốt cháy sạch sẽ. Tuy nhiên, tôi không buồn, ngược lại, tôi còn rất vui và tự hào khi đi khoe với mọi người ở nơi tản cư.

Buổi sáng hôm đó, tôi chăm chỉ bón phân ngoài ruộng, chuẩn bị trồng sắn cho mùa đói sắp tới. Làm một mình, tôi phải cố gắng đến khi mệt mỏi, nhưng lại nhớ về thời gian làm việc cùng anh em ở làng, vui vẻ và hăng say. Không thể quên làng, mỗi ngày tôi đều phải đi lên huyện để nghe tin về làng từ phòng thông tin. Khi đang ở đó, tôi ngẫm lại lối đi cũ và thấy một nhóm người tản cư mới, họ từ Gia Lâm đến. Một phụ nữ trong nhóm đó báo tin làng Chợ Dầu của tôi bị giặc tấn công.

Nghe tin tức kinh hoàng đó, tôi sững sờ, không thể tin vào điều đó. Khi nghe phụ nữ đó nói cả làng tôi là Việt gian, tôi cảm thấy đau lòng và bất lực. Hỏi mụ ta xem liệu chuyện đó có đúng không, nhưng mụ ta còn chỉ ra cả chánh Bệu. Tôi cảm thấy nhục nhã và đau đớn, tại sao làng tôi lại bán nước cho giặc? Về nhà, tôi nhìn đàn con thơ và cảm thấy xót xa, chúng không phải là người Việt gian mà lại phải chịu đựng. Tôi vẫn không hiểu tại sao mọi người lại làm như vậy, tưởng mọi người đều có tinh thần. Mấy ngày sau đó, tôi vẫn không thể quên được tin đó, chỉ biết ngồi im trong nhà và suy nghĩ. May mắn thay, chủ tịch làng đã lên bản cải chính, tin đồn làng theo Tây hoàn toàn sai lầm.

Tôi cảm thấy vui mừng và minh oan cho làng, từ giây phút đó, tôi tự hào về làng của mình. Tôi chia sẻ tin đó với mọi người xung quanh, cho họ biết làng tôi đã dũng cảm chống lại bọn Tây ra sao.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 2

Sáng hôm nay vẫn như bao ngày khác, tôi thưởng thức tách trà mới pha, đọc vài trang báo của ngày mới, nhớ lại những kỷ niệm tuổi trẻ tươi đẹp cùng làng xóm…

Trưa hôm đó, khi nhà vắng bóng, tôi ra suối bên dốc mạnh mẽ vỡ đất, dự định trồng sắn cho mùa sau. Nhớ mãi ngày thơ ấu ở làng, làm việc cùng anh em, đào đường, khuân đá… Làng Chợ Dầu ơi, lòng nhớ nhung vẫn mãi.

Kiên nhẫn chờ đợi đứa con lớn về, tôi nhắn nhủ vài lời chăm sóc nhà cửa, rồi vội vã đi lẻn nghe tin. Dọc đường, có người thường níu tôi lại, tôi vội vã tránh né. Nghe tin tức khó khăn, làm tôi đau đớn. Về nhà, tâm trạng càng trở nên buồn bã, không hiểu sao làng mình lại trở thành nơi Việt gian.

Ra khỏi phòng thông tin, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở vợ, rồi ghé quán uống chè thưởng gió. Bất ngờ nhìn thấy nhóm người lạ, tôi chẳng hiểu họ từ đâu đến.

Họ từ Gia Lâm lên, kể rằng giặc từ Bắc Ninh đến Chợ Dầu. Tôi hỏi về tình hình, không ngờ câu trả lời khiến tôi sững sờ: “Cả làng chúng ta đều là Việt gian theo Tây, không giết ai cả.” Tôi không tin vào điều đó, nhưng sự thật cay đắng buộc tôi phải về nhà.

Trở về nhà, những lời châm chọc của láng xóm vẫn ám ảnh tôi, tôi thầm thương nhớ lũ trẻ nhỏ của mình. Chúng là những đứa trẻ của làng, bây giờ đã trở thành lũ trẻ của kẻ Việt gian...

Chiều hôm đó, khi bà Hai về, căn nhà trở nên yên bình hơn bình thường, bọn trẻ cũng im lìm, không còn vui đùa như bao ngày. Nhưng có lẽ không ai trong làng lại dám gieo rắc những tin đồn như vậy. Tôi lại nghĩ về tương lai của làng Chợ Dầu, liệu có ai sẵn lòng buôn bán với kẻ Việt gian không?

Mấy ngày sau đó, tôi tự giam mình trong nhà, cảm thấy xấu hổ và tự ti. Tôi trút bỏ lòng bày tỏ tâm sự cùng con. Cuối cùng, tôi quyết định không quay về làng nữa. “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tôi quyết tâm ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ, vì một đất nước tự do. Nếu không thể làm gì tốt cho đất nước, thì ít nhất cũng đừng làm điều gì hại đến nó.

Tôi ôm nỗi lòng suy tư trong đêm, cảm thấy tủi nhục và tức giận. Dù ủng hộ kháng chiến, nhưng giờ ai cũng căm ghét người làng Chợ Dầu thì phải làm sao. Trong lúc tuyệt vọng, một buổi sáng sớm, ông chủ tịch xã mời tôi lên báo tin. Thì ra tất cả đều là giả dối, là mưu đồ phá hoại lòng tin của đối phương. Làng Chợ Dầu không phải là Việt gian mà tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến, tôi cảm thấy mừng rỡ và hạnh phúc được sống lại. Tôi hạnh phúc đi đính chính lại sự thật, tiếp tục tự hào về làng mình yêu quý nhất.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 3

Quê hương là điều gì ư mẹ
Bà cô dạy phải yêu quê nhà
Quê hương là điều gì ư mẹ
Mỗi khi xa cách vẫn thắm mãi.

Chúng ta ai cũng có quê hương, nơi góp giấc mộng, nuôi dưỡng tâm hồn nhỏ bé, nơi mỗi khi xa cách vẫn luôn hướng về. Đối với tôi, đó chính là làng Chợ Dầu đầy kỷ niệm. Người ta thắc mắc tôi là ai? Tôi chính là ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.

Ôi làng Chợ Dầu của tôi! Hình ảnh của làng vẫn rõ như in trong tâm trí tôi. Làng có phòng thông tin lớn nhất vùng, với chiếc tròi phát thanh cao tít bằng ngọn tre, mỗi chiều tiếng loa gọi vang vọng khắp cả khu vực. Nhà ngói san sát nhau, đường lát đá xanh, không dính bùn đất. Tôi tự hào về làng của mình. Nhưng chỉ vì bọn giặc kia mà làng bị tàn phá, dân trong làng phải tản cư.

Bây giờ khi khoe về làng, tôi khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập, về sự tham gia của mình từ thời kỳ bóng tối. Những buổi tập quân sự, ngay cả cụ già cũng tham gia. Những công trình của làng không ai không biết đến. Đã bao năm trời mới được trở về quê hương.

Thực sự tôi không muốn tản cư lên nơi này một chút nào. Nhưng bà Hai nhà tôi cứ khóc lóc, bắt tôi phải đi. Bà bảo:

-Ông định bỏ mẹ con tôi chết đói à? Ông phải lên trông nom chúng cho tôi xoay xỏa chứ. Rồi bà nói với mọi người, khẩn khoản với đồng chí thôn trưởng, mọi người đồng ý để tôi đi, tôi đành phải nghe theo.

Những ngày đầu ở đây công việc không có, tôi lúc nào cũng bực bội, không yên. Bà nhà tôi cũng khổ vì tôi. Tôi cáu gắt với mẹ con nhà bà. Nhưng tôi đã sống ở làng này từ nhỏ, ông cha của tôi cũng từng sống ở đây. Bây giờ gặp khó khăn, tôi không thể bỏ đi được. Công việc này là của cả làng, không phải riêng tôi.

Mỗi khi bước chân ra khỏi gian nhà tối thấp bề bộn những bồ, bị, nồi, niêu, và những dây quần áo ẩm sì ấy là tôi nhẹ nhõm, tươi tỉnh hẳn lên. Sao mà tôi sợ cái gian nhà ấy thế! Nhất là những buổi trưa im ắng, oi ả, có tiếng mụ chủ nhà nói nheo nhéo ở bên ngoài, thì tôi không sao chịu được. Tôi phải đi cho nó khuất. Tôi chưa thấy người đàn bà nào tham lam, tinh quái như mụ ta. Người thì gầy đét như thanh củi khô. Cái miệng mỏng lèo lèo, nói cứ liến đi, mà chúa thần là gian. Không vào nhà thì thôi, động vào nhà là nhòm.

Ngay từ khi mới đến, tôi đã bực mình với mụ ấy lắm rồi. Nghe xóm giềng nói, tôi biết mụ không phải là người đứng đắn.

Buổi trưa đó tôi ở nhà một mình. Con lớn đi gánh hàng, hai đứa bé tôi bắt ra vườn trông rau. Tôi với mệt mỏi với việc cấy cày từ sáng sớm. Khi về, tôi nằm xuống giường suy nghĩ về làng, nhớ về những ngày xưa. Giờ này là mụ chủ sắp về. Tôi phải nằm trong nhà nghe mụ chửi con kêu la, bếp bị bừa bộn. Tôi giật mình, ngóc đầu nhìn ra. Đứa lớn không vào nhà. Tôi cất tiếng hỏi:

Đi bên ngoài lâu thế mày làm gì vậy?

Chưa cho đứa con kịp trả lời, tôi nhẹ nhàng đứng dậy và cầm cái nón:

Ở nhà chăm sóc em nhé! Đừng đi đâu cả. Tôi giơ tay chỉ về phía căn nhà và bước ra ngoài.

Đang tải...

Bên ngoài trời xanh thẳm, có những đám mây trắng bồng bềnh. Đường vắng không một bóng người qua lại. Họ lẻ loi tán tỉnh dưới bóng cây tránh nắng. Âm thanh nhẹ nhàng của thiên nhiên vang lên, êm đềm. Tôi bước đi với đầu cúi và hai tay vung vẩy. Điều thường lệ, tôi ghé vào trạm tin tức để cập nhật tình hình. Tâm trạng tôi trở nên hưng phấn. Nhưng hạnh phúc của con người thật nhỏ bé. Ngày vui ấy chỉ là một khoảnh khắc tĩnh lặng trước khi bão táp ập đến. Rời khỏi trạm tin tức, tôi nhớ vợ vài việc rồi đi theo con hẻm quen thuộc. Tôi ghé vào quán nước ngồi. Ở đây, những người địa phương đang tán tỉnh dưới bóng cây. Nghe một phụ nữ nói về việc bọn Tây xâm nhập làng chợ Dầu, tôi lo lắng và nhanh chóng hỏi:

– Nó đã vào làng Dầu à bác? Vậy ta làm sao để loại bỏ chúng?

– Không có cách nào loại bỏ chúng cả. Cả làng họ, chúng ta đã làm gì còn lại khi chúng theo Tây!

Giọng của người phụ nữ đầy tức giận, như một cơn gió lạnh thổi trực tiếp vào mặt tôi. Tôi choáng váng. Cổ họng như bị tắc nghẽn, da mặt cảm thấy tê rát, hầu như không thể thở. Mắt tôi giật giật, dây thần kinh cứ như bị tê liệt. Sau một thời gian dài, tôi mới có thể nói lên tiếng, với giọng rất lạc lõng:

– Đó có phải là sự thật không bác? Hay chỉ là...

– Thì chúng tôi mới từ dưới lên đây mà lại...

Tôi chưa kịp nói gì thì họ đã nói. Rõ ràng. Kiên quyết như đinh đóng cột. Tôi đứng im. Hai tai ửng ỉng. Chẳng nghe thấy gì nữa. Giọng của họ như tan biến vào gió. Tôi thanh toán tiền nước, đứng dậy mơ màng. Nhếch miệng, cười lạnh lùng một tiếng:

– Hà, nắng chói chang, về thôi…

Tôi cúi đầu xuống và bước đi. Tôi nghĩ về bà chủ nhà. Về đến nhà, tôi nằm xuống giường, các con thấy tôi hôm nay có vẻ khác biệt, bí mật đưa nhau ra đầu nhà chơi đùa với nhau. Nhìn lũ trẻ, thấy tủi thân, nước mắt tôi tuôn trào…

-Chúng cũng là trẻ con của làng Việt gian à? Chúng cũng bị người ta khinh thường xem thường à? Tội nghiệp, ở tuổi đó… tôi nắm chặt hai tay và rít lên:

-Chúng ăn một bữa cơm hay miếng gì đó vào bụng rồi lại làm những việc nhục nhã như thế này!

Có lẽ không thể là bọn ở làng làm được như vậy. Tôi suy nghĩ về từng người trong tâm trí. Không, họ đều là những người quyết tâm và dũng cảm. Họ đã ở lại làng, sẵn sàng đối mặt với nguy hiểm, không ai có lòng làm những hành động nhục nhã đó!... Nhưng tại sao lại có tin đồn như vậy? Và thằng chánh Bệu thì rõ ràng là người đáng tin cậy của làng. Không có lửa thì sao có khói? Ai làm cho họ bịa ra những chuyện như vậy? Ôi chao! Thật là một sự nhục nhã, cả làng đều bị vu oan! Rồi sau này làm ăn, buôn bán thế nào? Ai tin họ? Ai mua hàng của họ? Trên khắp đất nước Việt Nam này, mọi người đều ghê tởm, căm ghét những kẻ như giặc bán nước... Và còn bao nhiêu người trong làng, mỗi người một phương, không biết họ đã hiểu rõ vấn đề này chưa?

Tối hôm đó không ai trò chuyện, không khí yên tĩnh đến lạ. Rồi tiếng nói vang lên như mọi ngày:

-Thày nó ạ.

Tôi nằm trên giường mà không nói gì.

-Thày nó đã ngủ à?

-Gì vậy? Tôi nhíu mày nhẹ nhàng:

-Tôi nghe đồn... Tôi nói mạnh mẽ:

-Biết rồi!

Tôi cảm thấy rùng mình. Cảm giác u ám và tiếc nuối bao trùm trong tâm trí. Tôi không thể quay về làng ấy nữa. Điều đó có nghĩa là tôi sẽ mất hết à? Không thể chấp nhận! Tôi yêu quý làng, nhưng nếu làng đã theo Tây thì phải có lòng thù hằn. Tôi ôm thằng con út lên ngực, vỗ nhẹ lưng nó, nhẹ nhàng hỏi:

-Ngồi đây! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?

-Là đứa trò mình ngày xưa.

-Nhà mình ở đâu vậy?

-Nhà tớ nằm ở gần làng chợ Dầu.

-Bạn có muốn ghé thăm làng chợ Dầu không? Mình ôm bé vào lòng và nhẹ nhàng trả lời:

-Dĩ nhiên rồi. Mình ôm chặt bé vào lòng và sau một lúc lâu hỏi lại:

-Thầy hỏi em nhé. Em ủng hộ ai? Bé trai giơ tay lên, quyết định và thông minh:

-Em ủng hộ ông Cụ Hồ Chí Minh mãi mãi! Nước mắt của tôi trào dâng, lăn dài trên gương mặt. Tôi thì thầm:

-Đúng rồi, em ủng hộ ông Cụ Hồ.

Chiều hôm ấy có một anh bạn cùng làng đến chơi, cũng là người của làng chợ Dầu. Tôi khoác chiếc áo sơ mi chỉnh tề và đi theo anh ấy. Tôi hối hả quên cả việc nhắc trẻ nhỏ ở nhà. Tôi đi suốt đến tối mới trở về. Khuôn mặt buồn rầu hàng ngày bỗng nở nụ cười, rạng rỡ lên. Miệng nhai nhai trầu, đôi mắt đỏ lồng lộn, sáng sủa… Ngay khi đến ngõ, tôi đã nói lên:

-Các bạn ơi, ra đây thầy phát quà cho nào.

Sau đó tôi nhanh chóng chạy tới bác Thứ để kể:

-Tây đã đốt nhà của tôi, ông chủ ạ. Đốt sạch. Ông chủ tịch làng vừa cải cách... Cải cách thông tin làng chợ Dầu của chúng tôi là kẻ phản bội ấy mà. Lừa! Lừa hết, không có gì thật đâu! Tất cả chỉ là mục đích sai lầm!

Câu chuyện đó chính là như vậy, mọi người ạ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không thể quên được cảm giác khi nghe tin cải cách. Vì niềm tin vào Đảng, vào bác Hồ và cả làng của tôi, chiến thắng mới đạt được như ngày hôm nay. Tôi hy vọng qua câu chuyện của mình, mọi người sẽ yêu quê hương của mình hơn nữa. Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 4

Tôi là ông Hai trong câu chuyện 'Làng”. Tôi yêu cái làng Chợ Dầu của tôi - nơi mà tôi sinh ra và lớn lên, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ thuở nhỏ. Bây giờ ở xa làng, trong trái tim tôi luôn rất nhớ làng - nhớ những ngày tham gia kháng chiến. Tình yêu với làng càng trở nên mạnh mẽ hơn trong lòng tôi nếu không có một ngày...

Tuân thủ chính sách của Đảng, gia đình tôi phải sơ tán, phải rời xa ngôi làng thân yêu, xa quê hương để lao động vất vả ngoài cánh đồng để trồng thêm vài gốc sắn. Trong giấc mơ, tôi nghĩ về làng và về những ngày làm việc cùng anh em. Ôi, thật vui khi nhớ lại những ngày ấy, tôi cảm thấy mình trẻ trung và hồi hộp lắm, tôi muốn quay về làng, muốn cùng anh em đào đường, xẻ kênh, xây dựng... Tôi tự hỏi liệu cái nhà gỗ ở đầu làng đã xây xong chưa? Những con hầm bí mật có lẽ còn chưa hoàn thành! Trời ơi! Tôi nhớ làng, nhớ làng quá.

Bên ngoài, ánh nắng chiếu xuống đất, tiếng gà rưng rưng vang lên. Nhà cheo leo, bụi đất phủ mờ, tôi nghĩ về bà chủ nhà, chắc chắn sẽ nghe thấy những lời mắng chửi của bà, về vấn đề nước cạn, bếp bị bừa bãi mà tôi cảm thấy chán chường. Màn cửa đột nhiên kêu rít, nhà sáng lên và tôi nghĩ rằng con gái lớn đã trở về, vì vậy tôi hỏi không thấy nó bước vào.

- Ra ngoài lâu thế mày làm gì vậy?

Trước khi con kịp trả lời, tôi nhanh chóng đưa ra nón và nhắc nó phải chăm sóc hai em, đừng để bà chủ lấy đi đồ của gia đình.

- Nó ấy làm việc tích cực biết không?

Tôi bước ra ngoài, trời xanh biếc, những đám mây sáng chói rọi xuống. Đường vắng vẻ, mọi người đều tránh vào bóng cây để tránh nắng, và một vài âm thanh nhỏ nhẹ như mời gọi, thật là dễ chịu. Đi dạo giữa con đường vắng, tôi mong nắng làm Tây ấy chóc chết.

- Ánh nắng này làm mất hồn mẹ chúng nó.

Theo thói quen, tôi đầu tiên vào phòng thông tin để nghe đọc báo. Tôi biết đọc chữ nhưng chữ in khó đọc khiến tôi khó chịu, tôi không thích những người lắm chữ đọc báo mà lại đọc thầm, không đọc to cho người khác nghe. Hôm nay may mắn tôi gặp được một anh dân quân đọc rất lớn tiếng, rõ ràng, biết rõ từng chữ. Tôi vui vẻ khi nghe được nhiều tin hay về tinh thần kháng chiến của dân ta. Có em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm để cắm quốc kỳ lên tháp Rùa, một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt thao ngay giữa chợ, và còn nhiều hành động dũng cảm khác. Tai nghe như múa lên, vui quá!

Tôi rời phòng thông tin, vào quán uống vài ngụm nước rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Tôi ngồi vào một quán nước, hút một điếu thuốc lào, uống một hụm chè tươi nóng, rất hài lòng. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc cùng tiếng của xe đi phá đường vang vọng. Dưới chân đồi, những ruộng lúa xanh mượt uốn cong dưới trời nắng, lấp lánh như một dòng sông. Có mấy con cò trắng bay dập dờn.

- Các ông, các bà ở đâu mà lâu thế?

- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đây ạ. Đi bốn năm mới lên được đây, vất vả lắm ạ.

Tôi hỏi về việc lúa má ở dưới, rồi hút một hơi thuốc lào và gật đầu nhẹ nhàng. 'Hừ, đánh nhau là đánh nhau, cày cấy là cày cấy, tản cư là tản cư… hoặc đáo để'

- Bác ơi, bạn có biết đâu là nơi súng bắn gần đây không? Nghe thấy ồn ào lắm

Một phụ nữ đang cho con bú nhảy vào:

- Nó đã rút ở Bắc Ninh và đi qua Chợ Dầu, nó làm ông sợ lắm ạ!

Tôi giật mình khi nghe tới tên Chợ Dầu, tôi nói càu nhàu:

- Nó... nó đã vào làng Chợ Dầu hả Bác? Vậy thì chúng ta đã giết được bao nhiêu kẻ?

Một người phụ nữ ôm con cong môi

- Không giết được ai cả, toàn làng họ đã theo Việt gian, theo Tây, còn gì để giết nữa.

Tôi cảm thấy như thót tim lại, da mặt như tê dại, tôi lặng lẽ rời đi, cảm giác như không thể thở, một lúc sau mới hết hoảng sợ và không tin vào những gì vừa nghe, tôi hỏi lại.

- Có phải là thật không bác? Hay chỉ là...

- Chúng tôi vừa từ dưới đó lên đây, Việt gian từ thằng chủ tịch cho đến cơ ông ấy! Khi Tây vào làng, chúng nó bảo nhau mang cờ thần ra hoan hô. Thằng Chánh Bệu thì đeo đồ từ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xa cam- nhông, đưa vợ con lên vị trí với giặc ở ngoài tỉnh mà lại.

Tôi đau đớn đến uất nghẹn, tôi trả tiền nước, đứng dậy chậm rãi.

- Hà, nắng oi bức, chúng ta về nào...

Tôi cố gắng lảng đi và đứng dậy đi thẳng, vẫn nghe rõ giọng chua lanh lảnh của người phụ nữ đang cho con bú.

- Cha mẹ tiên sư của chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm vẫn được người ta thương, còn giống người bán nước thì mỗi đứa một nhát thôi.

Tôi nghe như thể đang nói về mình vậy, chỉ có thể cúi gằm mặt đi, tôi nghĩ đến mụ chủ nhà, liệu mụ ấy có để yên cho gia đình lão già này không? Khi về đến nhà, tôi nằm trên giường, nước mắt của tôi tràn ra nhìn lũ con tủi thân, chúng cũng là trẻ con làng Việt gian à? Chúng cũng bị người ta phỉ nhổ đấy à? Tội nghiệp, cùng tuổi đầu mà...

Tôi đau đớn đến tột cùng, nắm chặt hai tay và rít lên:

- Các mày ăn miếng cơm hay miếng gì mà lại làm việc nhục nhã như vậy? Nhưng rồi tôi suy nghĩ lại, liệu những người ở lại làng có thể làm những việc đó được không? Đối với tôi, họ đều là người có tinh thần cả, họ ở lại làng quyết tâm sống chết với giặc. Chẳng ai cam lòng làm những việc nhục nhã đó, còn Chánh Bệu thì chắc chắn không phải là người làng. Không có lửa thì sao có khói. Oh! Đến cả làng Việt gian cũng cảm thấy nhục nhã, họ sẽ làm ăn buôn bán ra sao? Ai sẽ chịu? Họ sẽ buôn bán gì, trên khắp đất nước Việt Nam, họ là kẻ bị ghê tởm, kẻ bị ghét bỏ vì giống loài Việt gian bán nước. Rồi còn bao nhiêu người làng tan tác, mỗi người một phương, liệu họ đã hiểu rõ tình hình chưa?

Chiều hôm đó, vợ tôi trở về cũng có vẻ khác, chắc là vì chuyện làng Việt gian. Trong nhà, mọi thứ im lặng và khó chịu. Đến khuya, vợ tôi mới xuống bếp tính tiền hàng:

- Thưa, thưa ông ạ!

Nằm trên giường, tôi giả vờ không nghe thấy, bực mình và tức giận, tôi lặng im, cảm nhận tiếng mụ chủ từ dưới nhà...

- Thầy ấy đã ngủ chưa? Dậy lên, tôi cần nó.

Tôi ngửa đầu, giơ tay chỉ vào nhà và nghiến răng:

- Im đi, nó ngủ rồi, mà nó nghe thấy thì cũng chẳng ra gì cả. Hai từ 'Việt gian' lẻn vào đầu tôi, khiến tôi sợ hãi và tủi thân, tôi không dám bước ra ngoài. Mỗi khi nghe thấy tiếng Tây, 'Việt gian', 'cam nhông'... tôi lẻn ra góc nhà, giữ im lặng. Mụ chủ nhà có lẽ vui mừng lắm, mỗi khi tôi qua cửa, mụ ấy thích dùng những lời ngọt ngào để làm tổn thương tôi. Nhẫn nhịn chỉ vì có nơi để gia đình tôi ở, nhưng liệu mụ có để yên cho tôi không? Mụ có ý định đuổi tôi ra khỏi nhà không, và vợ tôi phải nhẫn nhịn xin mụ cho ở lại...

Từ hôm đó, tôi ngồi lặng lẽ trong góc phòng, đầu óc tôi tràn ngập những suy nghĩ u ám và đen tối, không biết phải làm sao, ở đâu cũng bị đuổi đi vì làng Chợ Dầu. Lời của người phụ nữ hôm trước vẫn vang vọng trong tâm trí tôi. Tôi suy nghĩ:

- Hoặc quay trở lại quê hương.

- Không quay về làng nữa, làng đã bị Tây làm mất, quay về làng là từ bỏ cuộc chiến, từ bỏ niềm tin vào Cụ Hồ, quay về làng là chấp nhận trở thành nô lệ của Tây. Không thể chấp nhận được, mặc dù yêu làng nhưng khi làng đã bị Tây chiếm hữu thì phải phản đối.

Mỗi ngày không có ai để tâm sự, tôi thường vu vơ nói chuyện với con út:

- Út à, thầy hỏi con biết không, con là con của ai?

- Là con của thầy đó, thầy ơi.

- Con có muốn trở về làng Chợ Dầu không?

Đứa bé nằm gọn vào lòng tôi và thì thầm

- Có, thầy ạ

- Thôi, thầy hỏi con nhé! Con ủng hộ ai?

Đứa bé nắm mạnh tay lên, tỏ ra mạnh mẽ và thông thạo

- Hồ Chí Minh vĩ đại muôn đời!

Nước mắt rơi dài trên khóe mắt, tôi nói thầm

- Ừ, đúng vậy, ủng hộ cụ Hồ đúng không con

Tôi mở lòng mình ra, và mỗi khi nghĩ đến điều đó, tôi lại cảm thấy đau đớn hơn. Anh em đồng chí biết lòng của bố con tôi, lòng trung thành không bao giờ phai nhạt. Mỗi khi tôi thốt ra những lời như vậy, trong lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn.

Nhưng bất ngờ, tin tức về việc cải chính được thông báo. Hôm đó, khi tôi cùng các bạn làng Chợ Dầu trở về, niềm vui không thể diễn tả bằng lời. Tôi reo hò với các em nhỏ:

- Đâu rồi các bạn, ra đây để tôi phân phát cho

Tôi chạy đến gặp bác Thứ và kể mọi chuyện

- Tây đã đốt nhà tôi rồi bác ạ! Họ đốt sạch luôn. Ông chủ tịch làng vừa tới và cải chính cho tôi biết: “Cải chính là làng Chợ Dầu của chúng tôi, không phải là Việt gian. Họ toàn nói dối, toàn sai lầm”.

Tôi ngờ ngợ vụ mụ chủ nhà sẽ tức giận nhưng mụ lại vui vẻ, từ đó tôi càng tự hào về làng, càng thường xuyên trò chuyện với bác Thứ về làng và tích cực lao động hơn.

Câu chuyện đó là sự thật, mọi người ạ! Khi nói ra, tôi cảm thấy lòng rộn ràng, xúc động. Cho đến bây giờ, tôi không thể quên mỗi sự kiện, mỗi lời nói về làng của mình. Qua đây, tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng: hãy yêu quý làng quê của mình - nơi gieo mầm vàng, góp phần nuôi dưỡng ta trưởng thành. Yêu làng quê của mình như tôi yêu làng Chợ Dầu của mình, và hãy tin tưởng vào làng quê của bạn, bạn sẽ luôn hạnh phúc - giống như tôi đã tin tưởng vào làng Chợ Dầu và trở thành một người hạnh phúc.

Trong vai ông Hai kể truyện ngắn về Làng - Mẫu 5

Làng Dầu của tôi, đâu thể quên được! Hương vị của lúa non vẫn ấm áp trong lòng. Con đường đá xanh mướt vẫn nối liền. Bầu trời cao vút, rộng lớn, nắng ấm phủ lên mái đình cổ kính. Tôi mãi yêu quý mảnh đất này, nơi sinh ra và lớn lên của tôi. Kẻ thù đã bị tiêu diệt khắp nơi. Làng Dầu không còn như trước khi tôi phải rời bỏ. Nhưng khi trở lại, trái tim tôi vẫn như xưa, không thay đổi. Trong tôi có một cảm giác lạ lùng. Một sự nhớ nhớ, một ít thương nhớ, pha chút tự hào. Tôi đắm chìm trong hạnh phúc. Hạnh phúc vì cảm xúc đau khổ từ quá khứ giờ chỉ còn là kỷ niệm, kỷ niệm không tốt nhưng lại gắn bó mãi.

Một ngày nắng chang. Đã mấy năm rồi, tôi cũng không nhớ rõ nữa.

Trưa ấy, trời nắng gay gắt. Ánh nắng chiếu sáng rực rỡ xuống sân. Nắng dường như muốn thiêu cháy tất cả. Tiếng gà kêu rộn ràng giữa trưa. Tiếng ve vang vọng không ngớt, làm lòng người nao nức. Khi xong việc, tôi có một khoảng thời gian dành để nằm nghỉ và suy ngẫm. Và tôi lại nhớ về làng Dầu của mình, nhớ mãi không quên.

Tôi chờ đợi đứa con gái lớn từng phút từng giây. Mong nó về sớm để trông nom nhà cửa, để tôi có thể làm việc của mình. Cuối cùng, nó đã về. Tôi dặn dò vài lời rồi vội bước ra ngoài. Đường vắng vẻ không một bóng người qua lại. Trời gió lạnh lẽo nhưng không đủ để làm dịu đi cái nóng của mùa hè. Với thời tiết như thế này, làm sao mà chịu được. Tôi tỏ ra bực bội và nói to. Có người đi ngang qua, ngạc nhiên hỏi lại:

- Ai đó là chúng nó?

- Là bọn Tây chứ còn ai nữa. Ngồi ở vị trí đó giờ giống như ngồi tù vậy.

Nói xong, tôi bước đi thẳng. Như mọi lần, tôi ghé vào trạm tin tức để nghe ngóng về tình hình chiến trường. Có bao nhiêu tin vui! Lòng tôi như nhảy múa vì vui sướng. Nhưng hạnh phúc của con người thường chỉ là thoáng qua. Ngờ đâu niềm vui ấy chỉ là giọt sáng trước khi bão tố ập đến. Rời khỏi phòng tin tức, tôi dặn vợ vài việc rồi rẽ sang con đường quen thuộc. Tôi ghé vào quán nước để ngồi nghỉ. Ở đây, những người tị nạn tụ tập, nói xấu những chuyện vớ vẩn. Nghe một bà phụ nói rằng bọn Tây đã xâm nhập vào làng Chợ Dầu, tôi lo sợ, lập tức quay lại và hỏi:

- Chúng... Chúng đã đến làng Dầu à? Vậy ta có thể giết được bao nhiêu thằng?

- Không giết được ai cả. Cả làng chúng tôi đã theo bọn Việt gian theo Tây, giết thêm có gì nữa!

Giọng của người phụ nữ trầm trọng, đầy ám ảnh. Nó như dòng sông lạnh buốt tràn vào tâm hồn của tôi. Tôi bất ngờ. Cảm giác nghẹt thở lan tỏa, da thịt run lên, tôi tưởng như không thể nào hít thở. Đôi mắt giật giật, dây thần kinh căng trở. Sau một thời gian dài, tôi mới ngậm ngùi nói lên:

- Liệu có thật không vậy bác? Hay lại chỉ là...

- Chúng tôi đang ở dưới đấy lên đây mà lại...

Tôi chưa kịp nói gì thì họ đã cắt ngắn. Rõ ràng. Mạnh mẽ như đinh đóng cột. Tôi trở nên mê đứng. Tai tôi ồ ạt. Không còn nghe thấy gì nữa. Giọng của họ hòa lẫn vào tiếng gió. Tôi thanh toán tiền nước, đứng dậy vụng về, nhắc miệng cười một cách lạnh nhạt:

- Hà, nắng chói chang, về thôi...

Từ ngày đó, tôi chỉ im lặng ở một góc nhỏ trong nhà, thậm chí cả nhà bác Thứ cũng không dám đến gần. Tủi hổ quá! Tôi không còn mặt mũi để nhìn ai nữa?... Ruột gan tôi luôn cháy bỏng. Mỗi khi có đám đông tụ lại gần tôi, tôi đều sợ hãi, nghe thấy tiếng cười nói xa xa cũng khiến tôi lo sợ, cảm giác như nghe thấy tiếng Tây, Việt gian... làm tâm hồn tôi run lên. Lúi thúi trong nhà, im lặng. Nhưng lại chuyện cũ! Như các cụ đã nói 'Ghét của nào trời trao của ấy'. Đúng như những gì tôi lo sợ, mụ chủ đã đến, ý tứ đuổi chúng tôi ra khỏi nhà. Phải rồi! Ai lại dại mà chứa lũ bán nước chứ? Tất cả đều quay lưng lại với tôi. Thật đáng sợ! Thật là khủng khiếp! Biết đem gia đình đi đâu bây giờ? Cứ suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ mãi. Những ý nghĩ u ám, đáng sợ luôn len lỏi vào tâm trí tôi. Từng bước, từng bước một, chúng chiếm đoạt tư duy của tôi... Hay là quay về làng?...

Nước mắt tôi cứ rơi không ngừng. Mặn mà. Quay về làng à? Không... Không... Quay về làng có nghĩa là từ bỏ cuộc chiến đấu, từ bỏ lý tưởng của cụ Hồ. Quay về làng có nghĩa là chấp nhận trở lại làm nô lệ cho thực dân. Không thể chấp nhận được! Tôi yêu làng. Yêu từ trái tim! Nhưng làng theo phương Tây đã mất rồi. Làng đã phản bội chúng ta, chúng ta phải trả thù.

Tôi ôm thằng bé, vuốt nhẹ đầu nó, hỏi nhẹ:

- Húc ơi! Thầy hỏi con biết không, con là con của ai?

- Con của thầy mà, thầy ơi.

- Thế nhà bạn ở đâu ?

- Nhà mình ở làng Chợ Dầu.

- Bạn có muốn quay về làng mình không?

Thằng nhỏ cúi đầu, vò đầu như đang suy nghĩ. Nó nằm sát vào vai tôi, nhẹ nhàng trả lời:

- Có.

Tiếng nói nhẹ nhàng. Như tiếng thở của lòng tôi. Sao tôi lại mãi yêu quý cái làng ấy như vậy? Tôi tiếp tục hỏi:

- Con ủng hộ ai?

- Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh mãi mãi!

Đôi mắt của thằng bé mở to như hết cỡ. Ánh mắt sáng lên một niềm vui không ngờ. Thằng bé trả lời quyết định. Lại là lúc nước mắt của tôi trào ra, ấm áp.

- Ừ đúng rồi, con ủng hộ cụ Hồ.

Tôi thầm thì với đứa bé. Tôi đẩy sâu vào tâm hồn đứa bé như là tự minh oan cho mình, tự trấn an lòng mình. Con người cha tôi không bao giờ dám đơn côi. Dù phải chết, cũng không bao giờ đơn côi.

Cứ như vậy cho đến ngày đó. Tôi nhận được thông tin sửa sai. Như là gỡ bỏ gánh nặng trên vai, tôi mua quà cho các em nhỏ. Rồi vội vàng đi khoe với hàng xóm. Phải! Phải! Phải để mọi người biết tin đó. Tay chân tôi nhảy nhót, cảm xúc đầy bộc lộ khi tôi đi và hét lớn:

- Làng tôi bị Tây đốt cháy. Nhà tôi giờ chỉ còn là đống tro tàn đen. Chủ tịch làng tôi mới thừa nhận rằng,,, những tin đồn làng Chợ Dầu chúng tôi bị kích động bởi giặc là hoàn toàn sai! Toàn là lừa đảo!

Ngôi nhà bị cháy đó là bằng chứng cho việc làng tôi không chịu quỳ xuống trước giặc. Tôi hô hào như muốn gạt bỏ những nỗi lo sợ. Đúng vậy! Mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc với tôi...

Tiếng trẻ con vui vẻ. Đứa bé nhỏ kéo tay tôi, gọi lớn, kéo tôi ra khỏi suy tưởng. Tôi nhìn xung quanh, mắt ướt nhòe. Tôi ôm thắm đứa bé, hôn lên má nó. Nụ cười của nó, âm thanh tan vào không khí, mang theo niềm vui của tôi lan tỏa khắp làng Chợ Dầu. Tôi đóng gói những ký ức ấy, đặt vào một chỗ sâu thật sâu và tiến về phía trước, về cái làng của mình. Kỷ niệm chỉ làm tình yêu với làng thêm sâu đậm... Tôi tin rằng, tương lai luôn rạng ngời phía trước. Và tôi sẽ gieo hạt tại đây để hạnh phúc mọc nở khắp nơi này.

Trong vai ông Hai kể chuyện ngắn về Làng - Mẫu 6

Quê hương của tôi giống như nhiều người khác, thời kỳ chiến tranh, bị chia cắt và phải di tản. Là một người nông dân, tôi yêu quê hương yêu nước đúng như vậy. Nhưng trong một lần tình yêu của tôi đối với làng, đối với quê hương, lại gặp phải thử thách.

Tôi là Nguyễn Hai Thu, gọi thân mật là ông Hai. Làng tôi tên là Chợ Dầu, bị Pháp xâm lược, bị hủy hoại và cướp bóc. Tôi phải di tản theo lệnh của cụ Hồ.

Dù ở nơi tản cư, tôi luôn nhớ về làng, tưởng tượng kháng chiến trong làng. Từ người già đến trẻ con, ai cũng hăng hái kháng chiến. Tưởng tượng đến là tôi lại đầy hứng khởi, mọi mệt mỏi đều tan biến. Tôi phải khoe với mọi người về ngôi làng đáng tự hào này.

Dù ở nơi khác, tôi luôn lắng nghe thông tin về chiến tích của làng. Khi nghe một nhóm người nói làng Chợ Dầu của tôi đã theo Tây, tôi như chịu sốc, cứng lại như không thở. Phải mất một thời gian để tôi tỉnh lại và ngay lập tức trở về. Khi về đến nhà, tôi cảm thấy mệt mỏi, nằm vật ra giường nhìn lũ trẻ đang chơi ngoài cổng. Tôi cảm thấy tiếc nuối và nước mắt rơi.

Mấy ngày gần đây tôi cảm thấy lo lắng và không muốn ra khỏi nhà. Khi nhìn thấy đám đông tụ lại, tôi cảm thấy bất an, nghĩ rằng họ đang bàn luận về làng Chợ Dầu. Mụ chủ nhà, mụ nói lung tung, châm chọc, đe dọa muốn đuổi cả gia đình tôi đi vì bị gán mác Việt gian, theo Tây phản bội Tổ quốc.

Trong lòng tôi, tôi phải đấu tranh gay gắt. Tôi quyết định: Làng thì yêu, nhưng làng nếu theo Tây thì phải trả thù.

Một ngày, ông chủ tịch thông báo rằng làng tôi đã được cải chính. Tôi vui mừng quá, chạy ngay đến nhà bác Thứ và khoe là tin làng tôi theo giặc là sai, thậm chí nhà tôi còn bị Tây đốt. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì làng mình vẫn theo cách mạng, theo lời cụ Hồ. Nhà có thể xây lại nhưng danh dự của làng mất đi thì không gì có thể khôi phục được.

Trong vai ông Hai kể lại truyện ngắn về Làng - Mẫu 7

Tôi là một người nông dân ở làng Chợ Dầu. Mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Khi kháng chiến bùng nổ, tôi muốn ở lại làng cùng với anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì tình hình gia đình nên tôi phải đi tản cư cùng gia đình. Ở nơi tản cư, tôi luôn nhớ về làng và thường khoe về làng của mình.

Trong tâm trạng nao nức, tôi nghe được tin làng Chợ Dầu của tôi bị Tây phản cách mạng. Lúc đó, cổ họng tôi nghẹn lại, da mặt tê rần. Tôi im lặng tưởng như không thở được. Sau một thời gian, tôi mới nhấc lên một chút, nuốt một cái gì đó đang vướng ở cổ, hỏi lại về tin đó và được khẳng định. Tôi rời đi một cách lảng ra khỏi đó và trở về nhà. Tại nhà, tôi nằm ra giường nhìn đám trẻ thấy tủi thân, nước mắt tôi trào ra. Chúng cũng là trẻ con làng Chợ Dầu sao? Chúng cũng bị người ta coi thường đấy ư? Tôi tự hỏi liệu làng đã thực sự phản cách mạng như tin đồn hay không, nhưng trong tâm trí, họ đều là những người yêu nước, yêu kháng chiến, không thể làm điều đó. Tôi cảm thấy xấu hổ, và buổi tối đó vợ tôi về cũng có vẻ khác biệt. Trong nhà, sự im lặng khiến mọi thứ trở nên khó chịu. Đến tối, vợ tôi mới hỏi về tin đó. Tôi im lặng, sau đó nói gắt và bà ấy cũng không nói gì thêm. Trong 3 - 4 ngày sau đó, tôi không dám ra ngoài, chỉ ở trong nhà để nghe tin tức. Mỗi khi nghe đến chuyện ấy, tôi luôn lo sợ và giật mình.

Trong tâm trạng đau đớn và tức giận, tôi phải đối mặt với mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình tôi đi. Tôi lâm vào tình trạng bế tắc: về làng hay ở lại. Cuối cùng, tôi quyết định: làng thì tôi yêu, nhưng nếu làng theo Tây thì tôi phải thù. Sau khi tâm sự với thằng con út, nỗi đau trong tôi giảm bớt. Một hôm, một người đàn ông đến chơi và mời tôi đi dạo. Tôi rất vui và khi quay về, tôi khoe rằng nhà tôi bị Tây đốt, nhưng ông chủ tịch làng đã cải chính và tin đồn về làng tôi phản cách mạng là sai. Tôi đi khoe khắp nơi, và tối hôm đó, tôi đến nhà bác Thứ để kể về làng của tôi.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 8

Làng Chợ Dầu, quê hương của tôi, đã phải di tản do bọn Tây, nhưng giờ đã được trở về, lòng tôi vẫn giữ nguyên tình yêu dành cho nó. Tôi hạnh phúc khi được trở về nơi mà tuổi thơ của tôi đã trải qua.

Khi trở về quê hương, tôi nghe được nhiều tin tức về các chiến công, nhưng bỗng một người phụ nữ nói rằng “làng Chợ Dầu phản cách mạng”. Tin này khiến tôi sốc và thất vọng. Tôi là người yêu làng, tự hào về nó, nhưng giờ lại có tin như vậy, thật xấu hổ và thất vọng. Tôi lảng tránh và quay về nhà.

Trở về, tôi vẫn không thể tin được điều đó, lòng đấu tranh giữa tình yêu thương cho làng và sự thật. Lòng thương yêu cho ngôi làng của tôi giờ đã bị thất vọng khi biết rằng nó đã trở thành nơi theo đuổi giặc. Tôi tâm sự với thằng út, những điều kể ra làm tôi nhẹ nhõm hơn.

Tôi đi chơi với ông hàng xóm và đến tối mới về, biết tin làng chợ Dầu theo Tây là sai sự thật, tôi rất vui mừng và hét lên cho bọn trẻ nghe:

“Các mày đâu rồi, ra đây tao sẽ chia quà”

Tôi nhanh chóng chạy đến để khoe về việc Tây đã đốt nhà của tôi, nhưng thông tin đó sai sự thật. Mặc dù tài sản bị mất nhưng lòng tôi vui vẻ vì biết làng quê mình vẫn trung thành với kháng chiến, với cách mạng.

Cuộc trải qua này, từ thất vọng đến niềm vui bất ngờ, vẫn giữ nguyên niềm tự hào về làng chợ Dầu. Làng tôi vẫn trung thành với cách mạng.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 9

Đã hơn một tháng kể từ khi tôi, Hai Thu, rời xa ngôi làng Chợ Dầu yêu quý để đi tản cư. Thật sự, xa quê nhà rồi mới thấu hiểu hơn câu nói của ông cha.

Ở nơi tản cư, tôi luôn nhớ về làng của mình. Niềm vui lớn nhất là khi đọc báo để biết thêm tin tức về kháng chiến. Mỗi lần đó, lòng tôi như hồi sinh, thật sự vui vẻ!

Hôm nay, khi con lớn trễ về, tôi cảm thấy bồn chồn. Khi thấy con bé ấy, tôi lao ra dặn bé và vội vàng đi xuống phòng thông tin như mọi khi.

Dù vẫn như vậy, tôi có những đứa con tuyệt vời và hiếu thảo. Hình ảnh làng quê làm tôi nhớ về tuổi thơ dưới nắng mai, làm việc cật lực để nuôi sống gia đình. Tôi thực sự yêu quê hương và những kỷ niệm đẹp ấy.

Tôi chỉ còn con út để tâm sự. Mỗi lần ôm nó vào lòng, nhắc nhở làng Chợ Dầu là quê hương của nó, lòng tôi lại đau. Dù đã quyết định rời làng, tình yêu với nơi đây không bao giờ phai nhạt. Quyết định ấy như một vết cắt sâu trong tim tôi. Nhưng tôi vẫn ủng hộ kháng chiến. Nhìn thấy con bé kêu to “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”, nước mắt tôi lại trào dâng, thổn thức khẳng định lời con. Mặc cho người ta nói tôi là Việt gian, tôi vẫn ủng hộ Cụ Hồ, dù không biết tương lai sẽ ra sao.

Đóng vai ông Hai kể lại truyện ngắn Làng - Mẫu 10

“Quê hương” – hai từ ấy mới thật thiêng liêng! Dù chỉ là những người nông dân đơn giản, chúng tôi cũng có quê hương và yêu nó. Sau Cách mạng tháng Tám, tình yêu quê hương của chúng tôi còn được mở rộng ra, kết nối với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tôi cũng không phải là ngoại lệ. Một lần, tình yêu của tôi đã trải qua thử thách khiến tôi không ngủ không ăn suốt mấy ngày.

Trước khi kể câu chuyện của mình, tôi muốn giới thiệu về bản thân. Dù mọi người gọi tôi là ông Hai, tên thật của tôi là Nguyễn Hai Thu. Làng tôi, làng Chợ Dầu, có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ. Nhớ những ngày Pháp xâm lược, tôi muốn ở lại cùng các anh em đánh Pháp, nhưng vì gia đình và lý do sức khỏe, tôi phải tản cư theo chính sách của Cụ Hồ.

Ở nơi tản cư, cuộc sống không dễ dàng. Gia đình tôi phải làm việc cật lực để sống sót và góp phần cho kháng chiến. Mỗi khi nghĩ về làng, tôi cảm thấy đầy sinh lực. Tối nay, tôi sẽ lại đi khoe về làng. Làng của tôi đáng tự hào!

Ở vùng đất Thắng này, sở thích của tôi là ngồi nghe tin tức từ phòng thông tin. Mặc dù tôi biết đọc, nhưng chữ in khó nhận biết, nên tôi thường nghe người khác đọc. May mắn, tôi gặp một người đàn ông trẻ cao lớn, mặc quân phục, biết đọc rất giỏi. Tôi nghe anh ta đọc những tin tức về kháng chiến, cảm thấy hăng say và tự hào. Nhưng càng nghe, tôi lại nhớ đến làng của mình, hy vọng làng cũng sẽ được khen ngợi trên báo.

Rời phòng thông tin, tôi vào quán để dặn vợ một vài điều trước khi ra ngoài. Đi trên đường, tôi gặp một nhóm người tản cư mới. Tôi tìm một quán gần đó để nghe họ chia sẻ thông tin. Tôi hỏi họ:

- Các ông, các bà đến từ đâu đấy ạ?

Một phụ nữ trả lời:

- Chúng tôi từ Gia Lâm lên đây. Đi bốn năm mới đến được đây, rất vất vả!

Những tin tức về tình hình dưới xuôi, đặc biệt là về sự rút lui của bọn giặc ở Bắc Ninh qua chợ Dầu, đã khiến tôi không khỏi lo lắng. Dù đã nghĩ làng mình sẽ có chiến thắng, nhưng lại nhận được một tin tức không may: làng Chợ Dầu của tôi đã theo bọn Tây. Tin này khiến tôi rất sốc, nhưng sau đó, tôi lại cảm thấy nên phản ứng ngay. Tuy nhiên, sự thật không dễ chịu khi tôi biết làng tôi đã đầu hàng mà không cản trở. Tôi cảm thấy tức giận và thất vọng đến mức không muốn làm gì ngoài việc trốn tránh mọi thứ.

- Hà, nắng nóng thế này, chúng ta nên về nhà thôi,...

Ngay cả khi đã rời khỏi quán, tiếng nói của người đàn bà vẫn vang vọng trong tôi:

- Những kẻ không biết ơn, cướp đoạt từ người khác dù đói khổ, người ta vẫn thương. Còn kẻ phản bội dân tộc, bán nước thì chỉ xứng đáng với một điều trừng phạt!

Khi trở về nhà, tôi cảm thấy mệt mỏi đến nỗi không thể nào di chuyển được, chỉ muốn nằm xuống và nhìn ra cửa sổ. Nhìn thấy đám trẻ đang vui đùa, tôi cảm thấy thương xót và đau đớn. Chúng mới chỉ là trẻ con, nhưng đã hiểu được nhiều điều. Không ai muốn gánh vác cái danh xấu làng Việt gian cho chúng. Tôi tức giận và chỉ muốn phàn nàn về những kẻ phản bội dân tộc, người bán nước.

Sau khi mắng mỏ, tôi bắt đầu nghi ngờ liệu mình có sai không. Nhìn nhận mọi người trong làng, tôi nhận ra họ có tinh thần chiến đấu mạnh mẽ hơn, sẵn lòng đối mặt với nguy hiểm. Tôi tự nhủ rằng không có lửa thì không thể có khói, nếu người ta không có ác ý với mình thì không lẽ lại tìm cách hạ thấp mình. Và đúng là chánh Bệu chính là người trong làng, không có gì phải trách. Điều này làm tôi cảm thấy xấu hổ, làng tôi đã bị gán mác Việt gian!

Tối đó khi vợ tôi về nhà, tôi cảm nhận được sự thay đổi trong cách cư xử của bà, bởi vẻ mặt buồn bã và cử chỉ lặng lẽ của bà. Sự im lặng kinh hoàng bao trùm ngôi nhà nhỏ của chúng tôi. Sau đêm đó, tôi không thể ngủ được, một đêm trắng tinh!

Mấy ngày sau đó, tôi luôn cảm thấy lo sợ, không dám rời khỏi nhà, thậm chí là chỉ sang nhà bác Thứ cũng không dám. Bất cứ tiếng cười hoặc đám đông nào cũng làm tôi hoang mang, và mỗi lần nghe tiếng Tây, Việt gian, tôi lại giấu mình. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi mụ chủ nhà thỉnh thoảng lại đến chọc ghẹo gia đình tôi. Mụ ta rõ ràng thích làm khó dễ chúng tôi. Tôi không thể không khốn đốn khi nghe vợ kể lại những lời đe dọa đó.

Tôi đã quyết định, nhưng tình yêu dành cho làng đã in sâu vào tâm trí tôi. Tôi không thể dễ dàng quên đi, nhưng việc báo thù cũng không phải là lựa chọn dễ dàng. Tôi cảm thấy buồn khi nói chuyện với Húc, vì cảm xúc của nó cũng giống như của tôi. Dù ý định mong muốn sự giải thoát, nhưng tôi biết rằng việc này chỉ là ảo tưởng.

Một tin tức đột ngột đã làm tôi mất đi tinh thần chiến đấu: làng tôi được cải tổ. Ông chủ tịch đến thông báo và mời tôi đi báo tin. Tôi cảm thấy ngạc nhiên và không biết phản ứng thế nào, nhưng sau đó tôi nhớ ra rằng cần phải mời khách vào nhà. Việc này làm tôi vui mừng, dù chỉ là một căn nhà, nhưng nó quan trọng với tôi. Tôi cảm thấy sung sướng không gì tả được.

Tôi ngạc nhiên khi câu chuyện cá nhân của mình lại được nhà văn Kim Lân biến thành một truyện ngắn và được đăng trên báo Văn nghệ. Đó là sự thừa nhận cho tình cảm của người nông dân đối với quê hương và sự tin tưởng vào Cách mạng.

Cuộc sống ngày nay của chúng ta ngày càng tiến triển nhờ vào Cách mạng. Chúng ta cần phải dành sức mình để đóng góp cho quê hương, để đất nước được tự do và cuộc sống của người nông dân được cải thiện.

Tôi tham gia vai trò của ông Hai trong việc kể lại câu chuyện ngắn về làng.

Quê hương là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Đối với tôi, làng Chợ Dầu là tất cả, không ai có thể cướp đi hoặc xóa nhòa nó trong tâm hồn của tôi.

Sau nhiều năm, tôi hiểu rõ hơn về những người dân trong làng. Chúng tôi đều là người Việt Nam, mang trong mình tình yêu và lòng tự hào về quê hương. Mọi người trong làng đều là những người lao động chăm chỉ, sống với niềm đam mê với đất nước và quê hương. Tôi không hiểu tại sao lại có những lời đồn đại xấu về làng tôi.

Ngày hôm đó, trời nắng sáng, tôi ghé phòng thông tin đọc báo như thường lệ. Dù là nông dân nghèo, cuộc sống cực khổ, nhưng tôi vẫn thích đọc tin tức để cập nhật thông tin. Khi rời khỏi phòng thông tin và vào quán, tôi bắt gặp một nhóm người đang náo nhiệt bàn tán.

Tôi tò mò nên đã tham gia vào cuộc trò chuyện. Người ta nói làng Chợ Dầu, nơi tôi sống, đã theo Tây. Tôi không thể tin vào điều đó. Người dân trong làng chúng tôi đều yêu nước, không thể làm điều đó. Tôi chỉ biết mỉm cười và rời đi.

Kể từ ngày đó, tôi không dám ra đường nữa. Tâm trạng tôi trở nên u ám, không muốn làm gì cả. Cả vợ tôi cũng chán nản. Sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, tôi luôn nghĩ sẽ đóng góp cho đất nước sau này.

Tôi và gia đình, làng xóm tôi đều hứa sẽ ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh. Nhưng giờ đây, làng tôi bị xua đuổi và không thể giúp được gì cho đất nước. Tôi yêu làng tôi nhưng Tổ quốc luôn ở trong lòng tôi.

Mọi người đều đuổi dân làng Chợ Dầu. Bà chủ nhà của tôi cũng từ chối chúng tôi. Trong vài ngày, tôi không biết phải làm gì, không biết đi đâu, chỉ cảm thấy nhục nhã và bất lực.

Cảm xúc trong lòng tôi chuyển từ nỗi buồn sang niềm vui khi nghe tin làng Chợ Dầu đã được cải chính. Tôi vui mừng và chia sẻ tin tức này với mọi người. Cuộc sống của tôi lại trở nên vui vẻ như trước.

Làng Chợ Dầu đã trở thành một phần không thể thiếu trong tâm hồn của người nông dân. Tôi sẽ luôn gắn bó và tin tưởng vào làng mình.

Tôi vẫn còn nhớ ngày đó làm việc ngoài vườn, nhớ về cuộc sống ở làng. Nghe tin làng được cải chính, tôi rất phấn chấn và chia sẻ niềm vui với mọi người.

Gắn bó với làng Chợ Dầu đã lâu, việc phải ra nơi mới sống khiến tôi cảm thấy lạ lẫm. Người ta vẫn gọi tôi với cái tên quen thuộc là ông Hai.

Ngày hôm đó, sau khi làm việc ngoài vườn, tôi nhớ về cuộc sống ở làng. Tôi phấn chấn khi nghe tin làng được cải chính và chia sẻ niềm vui này với mọi người.

Nghe tin làng Chợ Dầu bị tống cổ theo Tây, tôi sốc và bàng hoàng. Tôi cảm thấy tuyệt vọng trước tin đồn này về quê hương của mình. Tôi thề sẽ kiểm điểm mọi người để tìm ra sự thật.

Sau khi nghe tin làng bị giặc tấn công, tôi không thể ngủ được và suốt mấy ngày sau đó tôi chỉ chờ đợi tin tức cải chính. Khi tin làng được cải chính, tôi không kìm nén được niềm vui và chia sẻ tin này với mọi người.

Tôi vui mừng khi nghe tin làng đã cải chính và cảm thấy như mình đã tham gia vào cuộc chiến bảo vệ làng Chợ Dầu.

Đóng vai ông Hai trong truyện ngắn Làng, tôi kể lại những ngày sống ở nơi tản cư.

Khi nghe mụ đàn bà mới lên từ quê dưới nói rằng: “Cả làng chúng nó theo Tây, Việt gian đấy!”, tôi cảm thấy sốc và đau lòng. Tôi quyết tâm tìm hiểu sự thật và không ngừng hoài nghi về tin đồn này.

Người phụ nữ từ quê dưới vừa lên kể rằng toàn bộ làng Chợ Dầu đã lạc hướng theo Tây. Tôi không thể tin được điều này, nhưng những gì cô ấy nói có vẻ chính xác. Tôi cảm thấy đau lòng và tự hỏi liệu có điều gì sai trái ở đây.

Tôi cảm thấy tủi nhục và không dám đối diện với sự thật. Tôi lo sợ cho tương lai của những đứa trẻ làng, liệu chúng có phải chịu nỗi đau này không?

Tôi yêu quý làng Chợ Dầu của mình. Cảm giác của tôi dành cho nó là sâu sắc và tha thiết. Nhà cửa, con đường, mọi thứ trong làng đều gợi lại trong tôi một cảm giác tự hào và yêu thương.

Tôi tự hào về lòng yêu nước và sự kiên cường của người dân làng Chợ Dầu trong thời kỳ kháng chiến. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy hoài nghi về những gì người phụ nữ kia nói.

Tôi không thể tin vào việc làng Chợ Dầu đã lạc hướng theo Tây. Người dân làng đã thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm chiến đấu trong suốt thời gian kháng chiến. Tôi nghĩ có lẽ có một sự hiểu lầm nào đó ở đây.

Nhưng sao có khói mà không có lửa? Những chuyện đó không phải là đùa. Tôi đau lòng và tức giận khi nhận ra rằng cả làng đều bị coi là Việt gian.

Những ngày qua, tôi sống trong cảm giác đau khổ và tức giận. Không ai dám đối diện với tôi, và ngôi nhà trở nên ảm đạm.

Tôi giữ bí mật nhưng mụ chủ nhà đã biết và đe dọa sẽ đuổi tôi đi. Tôi không biết phải làm sao nữa.

Nhớ lại những thảm cảnh, tôi cảm thấy sợ hãi và tức giận. Tôi quyết định ủng hộ kháng chiến và không bao giờ tha thứ cho kẻ thù.

Tôi ôm thằng Húc vào lòng, cảm thấy an ủi khi nghe nó ủng hộ kháng chiến và niềm tin vào cụ Hồ. Nước mắt của tôi trào dâng trong niềm vui.

Tưởng rằng sẽ phải gánh chịu sự nhục nhã mãi mãi. Nhưng không ngờ, ông trời đã ban cho tôi một sự thương xót. Khi tôi chuẩn bị rời đi để đến nơi tản cư mới, một người thanh niên từ làng Chợ Dầu đến gặp tôi. Anh ấy nói làng Chợ Dầu không bao giờ theo Tây. Chúng ta đã kháng cự quyết liệt và bảo vệ làng mình.

Tin tức làm tôi cảm thấy hạnh phúc như trong mơ. Tôi đi hỏi lại và được dẫn đi gặp ông chủ tịch. Thì ra tất cả đều là tin đồn, bịa đặt. Kẻ thù đã cố tình gieo rắc sợ hãi và chia rẽ chúng ta. Nhưng Cách mạng đã biết và đã cải chính mọi điều.

Tôi điều tra và cải chính lại thông tin đó. Mọi người đều vui mừng. Tôi kể chi tiết về cuộc tấn công của kẻ thù và sự kháng cự của chúng ta. Tôi như vừa tham gia trực tiếp vào trận đánh đó.

Sau những biến cố đó, tôi càng yêu quý làng mình và kháng chiến hơn bao giờ hết. Làng Chợ Dầu là biểu tượng anh hùng, dũng cảm. Tôi sẽ tiếp tục ủng hộ Cách mạng và cụ Hồ, và sẵn sàng chiến đấu cùng nhân dân chống giặc đến hơi thở cuối cùng.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected]